ion của chất bảo quản mỹ phẩm (2)
7) ngoài axit benzoic
Một trong những chất tiêu biểu hơn cả là phenoxyethanol, là một dung môi và chất bảo quản tốt. Nó thường được sử dụng như một dung môi trong việc chuẩn bị chất bảo quản để hòa tan các chất bảo quản tan trong dầu khác, nhưng nó có thể được sử dụng như một chất nhũ hóa. Vì vậy, khi sử dụng cần phải xem xét ảnh hưởng của nó đến chính sản phẩm. Cũng cần lưu ý rằng phenoxyetanol không ổn định ở một số giá trị pH cao.
8) Axit benzoic / Natri Benzoat / Kali Sorbate
Axit benzoic / natri benzoat / kali sorbat hầu hết được sử dụng trong thực phẩm, vì vậy chúng được liệt kê cùng nhau. Cơ chế hoạt động khử trùng của nó là: chất bảo quản axit benzoic hoạt động trên các phân tử không phân ly của chúng. Axit benzoic không phân ly có tính ưa béo mạnh và dễ dàng đi qua màng tế bào, xâm nhập vào tế bào và cản trở tính thấm của màng tế bào của vi sinh vật như nấm mốc và vi khuẩn. , cản trở sự hấp thụ axit amin của màng tế bào, xâm nhập vào phân tử axit benzoic trong tế bào, axit hóa chất dự trữ kiềm trong tế bào, ức chế hoạt động của hệ thống enzym hô hấp trong tế bào vi sinh vật, do đó đóng vai trò bảo quản.
Những chất bảo quản này cũng thuộc về lớp có hiệu quả trong hệ thống axit. Axit sorbic và axit benzoic không hoạt động ở pH 7 và thể hiện hoạt tính lần lượt là 37% và 13% ở pH 5, vì vậy chúng nên được sử dụng trong môi trường axit.
9) Bronopol
Bronopol là tên viết tắt của 2-bromo-2-nitro-1,3-propanediol, có tác dụng kháng khuẩn phổ rộng và có thể ức chế hiệu quả hầu hết các vi khuẩn, đặc biệt là vi khuẩn Gram âm. Hoạt động tuyệt vời. Không ổn định trong điều kiện nhiệt độ cao và kiềm, dưới ánh sáng mặt trời
Màu trở nên đậm hơn. Bropol có thể tương thích với hầu hết các chất hoạt động bề mặt, nhưng khi nó chứa nhóm -SH trong nguyên liệu mỹ phẩm, chẳng hạn như cysteine, nó sẽ làm giảm hoạt tính kháng khuẩn của Bropol. Ngoài ra, nhôm kim loại cũng có thể làm giảm hoạt tính kìm khuẩn của Bropol.
10) IPBC
Tên tiếng Anh của IPBC là 3-iodo-2-propynyl-butyl-carbamate. Thành phần chính là butyl iodopropynyl carbamate, có hoạt tính kháng khuẩn phổ rộng, đặc biệt là chống nấm mốc và nấm men. Nó có khả năng tương thích tốt và có thể tương thích với nhiều thành phần khác nhau trong mỹ phẩm. Kết quả thử nghiệm cho thấy khả năng kháng khuẩn của nó không bị ảnh hưởng bởi các chất phụ gia như chất hoạt động bề mặt, protein và thuốc bắc trong mỹ phẩm.
11) Trichlorosine
Tên INCI của Triclosan là Triclosan, và nó có thể được sử dụng làm chất bảo quản với liều lượng thấp. Khi dùng liều cao, nó có tác dụng tiêu diệt và ức chế trên diện rộng và hiệu quả đối với vi khuẩn gram âm, nấm, nấm men và vi rút (như A, viêm gan B, bệnh dại, HIV) gây nhiễm trùng hoặc gây bệnh, vì vậy nó cũng có thể được sử dụng trong các sản phẩm khử trùng.
Ở liều lượng nồng độ cao, nó được sử dụng như một chất diệt khuẩn, và cơ chế của nó là nó có thể trực tiếp phá hủy màng tế bào vi khuẩn, gây ra sự biến tính không thể đảo ngược của protein và axit nucleic trong tế bào chất, dẫn đến sự tiết ra các chất lỏng nội bào có trọng lượng phân tử thấp và vi khuẩn cái chết.
Khi sử dụng ở nồng độ thấp, nó được sử dụng như một chất kìm khuẩn. Cơ chế của nó là tác động lên màng tế bào vi khuẩn để cản trở sự hấp thụ các chất dinh dưỡng như axit amin và uracil cần thiết cho sự phát triển của vi khuẩn, từ đó ức chế sự sản sinh của vi khuẩn. ) có thể đóng vai trò này.
Có rất nhiều loại chất bảo quản, quá nhiều để liệt kê. Dưới đây là danh sách các loại được sử dụng phổ biến hơn trong lĩnh vực mỹ phẩm. Nói chung, hầu hết các chất bảo quản đều nhạy cảm với các hóa chất oxy hóa khử mạnh, vì chúng cản trở sự trao đổi chất của tế bào và làm hỏng cấu trúc tế bào thông qua các phản ứng hóa học với các mục tiêu khác nhau trong tế bào vi sinh vật. Các muối amoni bậc bốn là chất bảo quản bằng cách ảnh hưởng đến áp suất thẩm thấu của tế bào vi sinh vật. Khi sử dụng chất bảo quản, cần xem xét ảnh hưởng của từng thành phần trong công thức đối với chất bảo quản để chất bảo quản có vai trò lớn nhất.
4. Không thêm chất bảo quản
Với sự tiến bộ của nghiên cứu khoa học, các nghiên cứu của ngành về tính an toàn của chất bảo quản ngày càng trở nên chuyên sâu hơn. Nhiều chất bảo quản được sử dụng truyền thống đã được chứng minh là có những tác động tiêu cực nhất định. Do đó, khái niệm sản phẩm an toàn"không thêm"chất bảo quản đã rất phổ biến trên thị trường kể từ khi nó được giới thiệu từ Nhật Bản trong những năm gần đây. Nó chỉ là do các lý do kỹ thuật mà nó vẫn chưa được phổ biến hoàn toàn. Tuy nhiên, nếu một ngày nào đó, các nhà xây dựng công thức giải quyết được vấn đề chống vi khuẩn của các hệ thống không có chất bảo quản, thì người ta tin rằng"phí phụ"sản phẩm sẽ chiếm thị phần lớn hơn.